
i người, “Lần này đề mục là các vị hãy họa tiếp hai câu sau, mỗi người có thời gian là một nén hương.”
Đó là một bức Đăng cao viễn thiếu đồ, Thất Nương chăm chú nhìn kỹ, cảm thấy không có gì đặc biệt.
(Đăng cao viễn thiếu đồ: nghĩa là bức tranh vẽ cảnh từ trên cao (lên núi) nhìn về phía xa – tranh cổ Trung Quốc thường đặt tên kiểu như vậy)
Nàng đến nơi này hai năm, cũng coi như
đọc qua không ít thi thư của Long Giao vương triều, hiện tại nhớ không
ra là bài thơ nổi tiếng nào có liên quan đến bức họa này.
Nàng khẽ nhíu mày, có phải bài thơ này mình bỏ sót không đọc qua? Việc này có vẻ phiền toái đây.
Ngay khi nàng đang lo lắng liệu có phải
bỏ cuộc không, nhìn sang thấy Văn Ngọc Hổ đang khoa bút vẽ, mà Lý Tứ
Lang lại vò đầu bứt tai, nàng chợt thắc mắc, lẽ nào Văn Ngọc Hổ nghĩ ra
được bài thơ đó mà Lý Tứ Lang lại nghĩ không ra?
Không phải nàng xem thường Văn Ngọc Hổ,
nhiều văn nhân như vậy qua không nổi Tứ Trọng Môn, hắn một võ tướng lại
có thể qua, có thể thấy tài văn của hắn cũng không tồi. Nhưng hắn và Lý
Tứ Lang, giống như một người đã ra trường đi làm nhiều năm và một sinh
viên còn đang đi học trong trường thời hiện đại, Lý Tứ Lang nghĩ không
ra mà Văn Ngọc Hổ lại liếc mắt một cái có thể làm được, việc này ít
nhiều khiến Thất Nương cảm thấy có chút không đúng.
Nhất định có điều gì mình bỏ qua không
chú ý, nàng nhìn lại bức tranh kia lần nữa, trong lòng lại đem lời Bao
tiên sinh lọc qua một lần.
“….Bức họa này chính là hai câu trên của
một bài thơ…. họa tiếp hai câu sau…” Nàng bỗng tỉnh ngộ, thì ra là thế!
Nàng cầm cây bút đặt bên bắt đầu vẽ.
Một nén hương sau, có chín người để giấy trắng, Lý Tứ Lang là một trong số đó.
Lý Tứ Lang nhìn tranh của mọi người, kỳ quái hỏi:
“Tranh của mỗi người đều không giống nhau, bài thơ đó rốt cuộc là đại tác phẩm của tiên sinh nào?”
Mạnh Tinh tức giận trừng hắn:
“Bao tiên sinh nói, bức tranh là hai câu trên của một bài thơ, bài thơ này không thể của chính ngươi được sao?”
Lý Tứ Lang lúc này mới giật mình.
Thất Nương thầm nghĩ, nguy hiểm thật, bản thân mình không phải người Long Giao cho nên không biết rõ, cứ nghĩ có
phải mình bỏ sót mất bài thơ nào hay không, suýt nữa thì rớt mất.
Đề mục của Hồ Lô Viên quả nhiên đặc sắc,
bắn cung, thử thách không phải bắn mà là dũng khí, vẽ tranh, thử thách
không phải vẽ mà là suy luận, thế này chẳng phải người vừa có dũng vừa
có mưu?
Quả nhiên là thú vị.
Khó trách năm trước không ai có thể Vấn
Thái. Cửu Trọng Môn lần này mới qua được một nửa cũng chỉ còn lại có ba
mươi người, hơn nữa theo Bao tiên sinh nói, năm nay người vào được Tam
Trọng Môn nhiều hơn so với năm ngoái, chỉ đáng tiếc là Lý Tứ Lang không
có duyên vào cửa thứ năm.
Cửa thứ năm là một vườn sen, hai phần ba diện tích vườn là hồ nước.
Trong hồ trồng toàn sen, hồ rộng cây cối
rập rạp tươi tốt, hai bên bờ hồ rải rác những tòa kiến trúc hình dáng
không giống nhau, cao thấp đan xen, xung quanh sóng nước lóng lánh làm
nổi bật nên sự thanh nhã tĩnh lặng. Nếu như là giữa hè, sóng nước lóng
lánh sẽ phản chiếu những đóa hoa sen khắp hồ đong đưa khoe sắc, nhất
định là đẹp không sao tả xiết.
Mọi người được đưa vào một tòa nhà gọi là Trân Lung quán.
Tiến vào rồi mới phát hiện, nơi này trừ
một lối đi thẳng tắp ở giữa, hai bên đều bị ngăn ra thành những phòng
nhỏ để chơi cờ, bên trong chỉ nhìn thấy có bàn cờ cùng hai cái ghế tựa.
Đề mục của Ngũ Trọng Môn chính là “Kỳ”.
Hiện tại đối diện Thất Nương là người quen, là chủ nhân vế đối trên khi nàng qua cửa thứ hai, Tôn lão tiên sinh.
Hiển nhiên vị Tôn lão kia cũng không dự
đoán được đối thủ của lão lại là nàng, cười nói: “Chúng ta thật là hữu
duyên!” Lại khen: “Tiểu tử quả nhiên có chút bản lĩnh, lại qua được Ngũ
Trọng Môn.”
Thất Nương không nói nhiều, dụng tâm đánh cờ.
Đối phương lúc bắt đầu cho nàng đi trước
năm quân, quy tắc lần này là, trong vòng một nén hương không bị đối
phương ăn mất năm quân là qua cửa.
Nói thì dễ, Thất Nương chơi được một nửa đã biết mình sẽ thua.
Nàng bất động thanh sắc trầm giọng hỏi:
“Tôn tiên sinh, nơi này gọi là Trân Lung quán, có thể có sách Trân Lung dạy đánh cờ không?”
Tôn lão nhìn bàn cờ nói:
“Trước kia có, nhưng sau này thất lạc rồi.”
Thất Nương lại hạ một quân:
“Thật sao? Tôi trước kia từng xem qua một ván cờ Trân Lung, thật sự là cờ hay, đáng tiếc là không ai có thể giải được.”
Tôn lão mắt sáng rực, trở nên hưng phấn hỏi:
“Vậy ngươi còn nhớ rõ các nước cờ như thế nào chứ?”
Thất Nương cười:
“Lúc ấy tôi cũng mất không ít công suy nghĩ, làm sao lại không nhớ rõ….”
“Mau mau mau, ngươi nói ta nghe một chút đi, nó là như thế nào…”
Tôn lão lập tức nổi hứng thú như nàng dự tính.
Thất Nương lắc đầu, nhắc nhở:
“Tiên sinh, chúng ta còn chưa chơi cờ
xong đây! Mà nói thêm, tôi chơi xong ván này rồi có lẽ phải rời khỏi
vườn, làm gì còn thời gian mà bày ra ván cờ cho ngài?”
Nói vậy Tôn lão cũng nghe ra, ack! Tiểu tử này muốn ăn gian…. Ta thả hắn, hắn mới cho ta xem ván cờ Trân Lung….
Có thể làm giám khảo của Hồ Lô Viê