
ường phía trước chưa chắc đã bằng
phẳng, nhưng ít ra vẫn sẽ có ánh mặt trời xuyên qua sương mù chiếu tới, đột
nhiên cô cảm thấy vô cùng vui sướng nhưng cũng rất đỗi buồn bã.
Đến ga tàu, trên bảng điện tử lớn ở sân ga không ngừng lưu chuyển thông tin
về giờ tàu chạy và ga đến, Khánh Đệ vừa ngẩng đẩu lên, hai chữ Dã Nam thật nhức
nhối đập vào mắt cô. Liệu ở đằng sau bức tường cao và dày kia, anh có biết tất
cả những chuyện này không? Anh sẽ đau đớn tới mức nào? Đời người nghiệt ngã,
ngoài việc thẫn thờ chờ đợi ra, bạn còn có thể làm cách nào để chống lại sự sắp
xếp của số mệnh nữa?
"Chị, phải vào ga rồi."
Con tàu xinh xịch, xinh xịch rời khỏi ga chạy về hướng Nguyên Châu, sau khi
sắp xếp xong hành lý, Khách Đệ đứng ở chỗ nối giữa hai toa tàu, phóng tầm mắt
nhìn Vấn Sơn đang lùi dần lại phía sau. Rất lâu sau đó, cô móc trong túi áo ra
lá thư đã bị cô gấp nhăn nhúm, cẩn thận xé phong bì.
Khánh Đệ:
Chào em!
Hãy tha thứ cho chị đã làm phiền em hết lần này tới lần khác, nhưng từ lần
đầu tiên gặp nhau trong trường cho tới khi thân thiết, chị đã vô thức coi em là
người tri kỷ trong cuộc đời, thậm chí còn ngưỡng mộ em như một thần tượng. Sự
tỉnh táo của em, sự khoan dung của em, sự bình thản của em, là sức mạnh mà chị
không bao giờ có được khi chị suy sụp, gục gã.
Chị thường nghĩ, một người, phải cần có bao nhiêu can đảm mới có thể chống
lại được sự nghiệt ngã của số phận? Phải cần tỉnh tảo thế nào mới có thể nắm bắt
được một tia hy vọng nơi tâm hồn hoang dã? Còn phải thông minh tài giỏi tới đâu
để tránh được cạm bẫy giăng đầy, bình an đi tới bến bờ chị muốn?
Số phận chẳng qua là một con phù du (1), mà chị, chỉ là một thứ sống ký sinh
trên người nó...
Khánh Đệ từ từ trượt người theo thành tàu ngồi xuống, tay run run nắm chặt lá
thư, khóc không thành tiếng.
Số phận chẳng qua chỉ là một con phù du mà thôi.
(1) Phù du: Một họ côn trùng, ấu trùng sổng trong nước một năm đến sáu
năm, thành trùng có hai cánh, thường bay trên mặt nước, chỉ sống được từ mấy giờ
đến một tuần lễ.
Phòng giam số mười hai khu số ba của trại giam Dã Gia Sơn, mười hai chiếc
giường khung chia làm hai dãy kê sát hai bên tường.
Giường của Khương Thượng Nghiêu là tầng một của chiếc giường đầu tiên nằm
phía bên trái, một vị trí vô cùng đẹp. Còn lý do vì sao anh lại được chuyển tới
chỗ nằm này, đương nhiên bởi không tránh khỏi liên quan tới vụ án mạng xảy ra ở
trại tạm giam. Trên thực tế, từ sau lần đó cho tới khi lên núi, đã không còn ai
dám thử vuốt râu hổ nữa. Cho dù là cán bộ quản giáo cũng cư xử với anh khách khí
mấy phần. Khương Thượng Nghiêu không phải người không biết điều, người khác
kiêng dè với thế lực đứng sau anh, nhưng sự tình thế nào anh là người rõ hơn ai
hết, vì vậy bình thường anh vẫn tuân theo mọi quy tắc trong trại giam, nên rất
được lòng các cán bộ quản giáo. Trong mắt những phạm nhân khác, thái độ hòa nhã
của Thượng Nghiêu càng khiến anh thêm thần bí, nên cư xử với anh hết sức cung
kính. Dù đã giải thích mấy lần, cuối cùng cũng đành cười mặc kệ họ ngộ nhận.
Trải qua hơn một năm cải tạo lao động, da anh đã dần trở nên thô ráp, những
đường nét nơi khuôn cằm cũng góc cạnh hơn. Đôi lúc soi gương cạo râu, anh sẽ
đứng quan sát khuôn mặt xa lạ trong gương một lúc thật lâu, sau đó mỉm cười chế
giễu. Cơ thể mảnh khảnh gầy yếu trước kia giờ đã cường tráng hơn nhiều, nằm
thẳng trên giường rộng chín mươi centimets, gần như chiếm gần hết diện tích
giường.
"Khương Thượng Nghiêu, chưa ngủ à?" Lăng Vạn Cường nằm giường trên hỏi.
Anh gối đầu lên một cánh tay, mắt khép hờ đáp lại một tiếng. Lăng Vạn Cường
thấy anh có vẻ không muốn nói chuyện, lật người, không dám hỏi thêm gì nữa.
Khương Thượng Nghiêu mở mắt ra, nhìn chằm chằm về phía trước một lúc lâu, rồi
lần tay xuống dưới gối lấy ra một lá thư.
Dưới ánh sáng của chiếc bật lửa, anh cẩn thận đọc kỹ lại một lượt, mặc dù mỗi
chữ trong lá thư này anh nhớ rất rõ, nhưng khi đọc thầm lại một lần nữa, vẫn
không ngăn được sự bi thương đang cuồn cuộn trào dâng trong tim và khao khát
mong muốn nhanh chóng được biết chân tướng sự việc.
Người viết lá thư này cho anh ra sức bắt chước nét chữ tròn tròn rất trẻ con
của Nhạn Lam, nhưng trong những nét phẩy, nét mác (2) vẫn vô tình để lộ ra nét
bút sắc nhọn của mình.
(2) Nét phẩy, nét mác: Các nét viết của chữ Hán.
Lá thư này không phải do Nhạn Lam viết, nhưng người viết nó lại dùng giọng
điệu thường thấy của Nhạn Lam.
Nhạn Lam gọi anh là "Anh", sau đó giải thích lý do tại sao lâu như vậy không
gửi thư tới, kể với anh chuyện học lại vất vả như thế nào, sự mệt mỏi khi chăm
sóc mẹ ra sao, cả sự hoang mang của việc lần đầu tiên phải đến sống ở một nơi xa
lạ khi thi đỗ vào trường Đại học Sư phạm Nguyên Châu, còn cả áp lực khi phải căn
đo thời gian để đi tìm việc làm thêm khắp nơi. Sau đó, Nhạn Lam nói, cô ấy rất
nhớ anh.
Đọc lần đầu tiên, anh gần như đã tin đó là thật.
Nhưng từ hơn một năm trước khi bị chuyển đến Dã Gia Sơn, anh đã âm thầm nghi
ngờ. Sự lo lắng cố gắng giấu dưới vẻ bề ngoài thoải