
còn theo dõi tôi vẽ nữa
không? Tôi không biết. Nhưng tôi tin lời em, kể cả khi nó chỉ là lời động viên
xã giao. Tin và không bao giờ suy xét nó đúng hay sai, tôi đã kết thúc quãng đời
cấp ba như thế. Gác lại những kỷ niệm, bỏ lại những buồn phiền, tôi giã từ cuộc
sống học sinh. Từ nay, tôi là sinh viên, tân sinh viên! Hé hé!
Đại học là một ngưỡng cửa hoàn toàn mới. Trước tiên là tôi
giã từ chiếc xe đạp quen thuộc và chuyển sang đi xe máy. Từ việc phải đeo thẻ
sinh viên mới cho vào trường, giảng đường rộng lớn thay cho lớp học, giảng viên
thì cứ giảng khỏi cần quan tâm sinh viên nghe hay không (tất nhiên không thiếu
ông thầy bà giáo khó tính), sinh viên ăn mặc thoải mái và những cô gái tươi non
mơn mởn. Muôn thuở là vậy, đời thằng con trai trước tiên phải tia xem gái xuất
hiện ở chỗ nào đã, học hành tính sau! He he! Vì là ngành tài chính nên khóa của
tôi cũng lắm cô theo học, cơ bản là không thiếu mùi nữ giới như ở mấy trường
Xây Dựng hay Bách Khoa. Có một điều tôi chiêm nghiệm ra là ở các trường thiếu
bóng hồng, các ông con trai có xu hướng quậy, quái và khùng hơn nhiều. Cái gì
mà “No woman no cry” chứ? Bob Marley ơi, không có phụ nữ là khóc tiếng mán luôn
đó!
Tựu chung những thằng sinh viên năm nhất đều rất hăng hái học
tập. Tôi cũng rứa. Tôi nghĩ một ngày kia, mình sẽ trở thành nhân viên ngân hàng
khoác bộ suit bóng lộn, lương tháng nhiều vật vã, đi làm trên con ô tô nho nhỏ,
ở trong một ngôi nhà to vật vã và một cô vợ nho nhỏ. Giấc mơ này chạm ngưỡng
hoang tưởng – cơ mà thằng tân sinh viên nào cũng hoang tưởng hết. Thậm chí lắm
đứa còn nảy sinh tư tưởng coi thường nghề nghiệp, như kiểu khinh thường người
phát tờ rơi. Chúng nó không hề biết rằng đó chính là việc mà một nhân viên tín
dụng phải làm, nhưng đấy là câu chuyện khi ra xin việc.
Vì sự hoang tưởng ấy, tôi cố gắng nuốt toán cao cấp, môn xác
suất thống kê, marketing cơ bản, kinh tế học… đủ thứ hầm bà lằng xoay quanh một
chữ “tiền”. Trường hồi ấy vẫn học theo niên chế chứ chưa theo quy tắc tín chỉ
như bây giờ, thành thử việc học cũng không khác cấp ba nhiều lắm. Tuy nhiên,
sau khi hoàn thành học kỳ I với điểm số toàn hạng khá, tôi phải thừa nhận rằng
mình không hề thích ngành tài chính. Tôi có thể trở thành nhân viên tài chính
làm những công việc lặp đi lặp lại, nhưng sự lặp đi lặp lại đó khiến tôi phát nản.
Cái “máu” vẽ đã ngấm vào người tôi quá lâu, đóng gỉ đóng cặn trên từng thớ thịt
thớ xương, nay gặp số má công thức thì chán nản cũng dễ hiểu.
Chán học, tôi quay ra tìm cách kiếm tiền, gọi một cách mỹ miều
là kinh doanh. Tôi khởi nghiệp bằng… bán hàng đa cấp. Nghe hài hước nhưng là sự
thật. Cách đây chỉ 6 năm thôi, mọi đứa sinh viên năm nhất đều kinh qua bán hàng
đa cấp. Nghe người ta nằm không kiếm ra trăm triệu đồng, đứa nào chả sướng? Tôi
đã tốn 90 nghìn để tham gia hệ thống kinh doanh mỹ phẩm đa cấp, từng bán sản phẩm
cho bạn bè và người thân trong gia đình, từng năn nỉ mồi chài các kiểu con đà
điểu. Và một đặc điểm chung là họ đều không nhờ tôi mua lần hai, ánh mắt mà họ
dành cho tôi cũng trở nên nghi kỵ hơn. Đồng lãi kiếm ra chưa đến trăm nghìn mà
cái giá tôi phải trả thực quá đắt. Thấy vậy, tôi nghỉ ngay công việc này. Về
sau, gặp những ông bạn cứ dụ khị “mày đi với tao, có cái này hay lắm, kiếm nhiều
tiền cực!” là tôi chỉ cười trừ, coi như không biết gì. Kinh doanh cần người có
tố chất, tôi không phải loại đó.
Học hành chán, kinh doanh chẳng đâu ra đâu, như một hệ quả,
tôi quay lại vẽ vời. Tất nhiên là vẫn hoàn thành bài học, đi học đầy đủ (tôi
dám nói rằng mình là thằng chuyên cần có số má) nhưng tôi dành nhiều thời gian
cho vẽ hơn. Sau giờ đi học, tôi lại trầm mình trong giấy, màu và máy tính; khi
vẽ giấy, khi vẽ máy (bằng chương trình Paint), khi sáng tác những đoạn truyện
tranh nhỏ. Và dĩ nhiên không thể thiếu rock – metal. Bố mẹ chẳng cấm cản tôi nữa,
dù thi thoảng vẫn cằn nhằn “học đi mày, vẽ không ra tiền đâu!”. Mỗi lần ra bức
vẽ mới, tôi lại scan và upload lên trang web mà Châu để lại cho mình. Tôi vẽ đều,
up đều và chưa bao giờ chán công việc ấy. Có thể tôi đã lớn, người to xác ra
(tôi cao hơn bố mẹ nhiều lắm) nhưng khát khao vẽ trong tôi chẳng hề lớn chút
nào. Nó vẫn trẻ, vẫn cuồng nhiệt, ngây thơ và thậm chí điên khùng, hệt như thuở
bé vậy.
Khi con người lớn lên, những giấc mơ đều trở thành phù phiếm.
Tôi là một trong số ít những người vẫn lưu giữ giấc mơ thời bé và phấn đấu vì
nó. Cũng bởi thế, tôi trở nên lập dị trong mắt nhiều người. Ví dụ như thằng Cuốc
và thằng Sĩ, chúng nó nghĩ sự nghiệp vẽ vời của tôi chỉ là thứ vớ vẩn và khuyên
tôi nên tập trung làm việc khác. Thằng Sĩ nói:
-Ông vẽ được như Picasso không? Không chứ gì? Thế thì tập
trung kiếm tiền đi ông ạ! Đập Muỗi! Bọn tôi định mở cửa hàng, ông làm không?
Thằng Cuốc tiếp lời:
-Bây giờ bán trà chanh là lãi lắm ông ạ! Đóng Muối, ông hùn
vốn cùng chúng tôi nhé?
Nó trình bày một lô một lốc kế hoạch kinh doanh riêng. Hồi ấy
trà chanh bắt đầu nở rộ và nó muốn cùng tôi mở cửa hàng kinh do