
vài rẻo nông nhàn hiếm hoi, cô quặn thắt nhớ về quãng ngày đã qua, lúc được bố mẹ ngợi khen hết lời khi cô xuống bếp nấu bữa chiều hay thời người đàn ông nay gọi là chồng vẫn luôn dịu dàng bung ô, che nắng đón mưa thay cô nhưng quá khứ chỉ còn là vệt hằn đớn đau. Thoáng chốc năm năm trôi đi, cô vẫn chưa một lần thăm hỏi bố mẹ mình trong khi khoảng cách giữa hai vợ chồng ngày càng xa mù, ngoại trừ những lần chồng có nhu cầu sinh lý – họ gần như sống riêng. Hai năm gần đây, chồng cô thuyên chuyển công tác lên huyện nên thời gian anh ta ghé qua nhà chỉ đếm trên đầu ngón tay mà có về thì trò chuyện với bố mẹ, thăm hỏi em gái vấn đề học hành, bù khú cùng xóm làng đã chiếm trọn. Con bé Thư lên bốn, Chi em nó gần ba tuổi, cô thêm vài lần sẩy thai nhưng bố chúng lại chẳng hề hay biết hoặc giả có biết cũng vô tâm quay mặt đi bởi câu nói cửa miệng của anh ta là: “Đàn ông lo việc đại sự bên ngoài đã đủ gian lao nên đàn bà muốn chồng yêu thương thì phải tròn bổn phận vợ hiền dâu thảo, tâm lý thông cảm cho chồng và biết bằng lòng với hạnh phúc đang có.” Cô vì lời này mà không suy tính thiệt hơn, hết lòng chăm sóc bố mẹ chồng, em chồng, chồng suốt ngần ấy năm hòng mong một hạnh phúc trọn vẹn. Tuy nhiên hy vọng ấy cứ nhạt dần nhạt dần theo những vòng quay mắng nhiếc của bố mẹ chồng xen lẫn tiếng cười mỉa mai của cô em chồng và hụt hẫng nhất chính là thái độ bạc bẽo của chồng. Cách đây hơn tháng, cô sẩy đứa con thứ năm; đêm qua, anh ta vẫn mặc nhiên đè cô xuống giường, hùng hục thỏa mãn bản lĩnh đàn ông xong liền kéo quần đứng dậy, không một lời động viện dẫu là man trá. Cô cảm giác bản thân còn rẻ rúng hơn cả gái làng chơi, phải chăng?
Vậy mà cũng hai năm nữa trôi qua, cô vẫn không liên lạc được với bố mẹ nhưng lần này là do thư gửi đi rất nhiều mà hồi âm mịt mùng xa. Có lẽ họ chưa thể tha thứ cho đứa con gái duy nhất ngỗ ngược của mình... Có lẽ họ không còn ở ngôi nhà cũ... Có lẽ vì cô còn chưa dám đối mặt hiện thực nên lời lẽ trong thư chỉ đơn thuần là thăm hỏi qua loa... Có lẽ định mệnh chỉ thị muốn cô tiếp tục níu kéo cuộc hôn nhân này cho con gái có bố, cho bản thân cô một lần hạnh phúc... Nhưng trong tất thảy những có lẽ, cô luôn cố gắng trốn tránh nỗi sợ hãi rằng bố mẹ đã chẳng thể chờ đến ngày con cháu hồi gia. Cơn lo lắng tràn ngập sự day dứt, hối hận khiến sức khỏe cô ngày thêm suy yếu mà gánh nặng việc nhà chẳng giảm còn tăng, gia đình chồng khắc nghiệt ra mặt, vấn đề cô chẳng sinh được con trai là nội dung duy nhất mỗi khi họ mở miệng, chồng dường như thành người xa lạ khi anh ta khiến cô thương tổn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tuy nhiên điều cô phiền não nhất lại là hai đứa con gái còi cọc xanh mướt vẫn chưa được đến trường. Đứa chị rất nhút nhát, chỉ cần một tiếng quát to đã có thể khiến nó trở nên ngơ ngáo mất hồn. Đứa em ít nói với người nhưng suốt ngày tha thẩn trò chuyện cùng cỏ cây, heo gà – nó lì lợm hơn chị, đánh không khóc, quát không sợ, luôn mím môi như trêu ngươi. Liệu tương lai chúng sẽ đi về đâu? Nhìn con, mọi ý chí phản kháng, dứt bỏ cuộc sống hiện tại bỗng tan biến vì chúng cần một gia đình đầy đủ bố mẹ, ông bà; nhiệm vụ của cô là cố gắng nhẫn nhịn hơn nữa. Chẳng phải ông bà ta thường nói “Gái có công thì chồng không phụ” đó ư?
Đầu đông năm ấy, cô mang thai lần nữa, chắc nhờ ơn trên thương xót nên thai nhi rất khỏe, ít hành mẹ. Bụng cô ngày càng tròn, ai gặp cũng bảo nhất định sẽ sinh quý tử, nhà chồng nghe thế cũng bớt cay nghiệt phần nào duy chỉ riêng chồng cô là hững hờ như không bận tâm. Thai đến tháng thứ sáu thì tiết trời đã vào hạ năm sau, trong một lần nhà có giỗ, anh ta đưa cả tình nhân về rồi chỉ thẳng vào mặt cô mà tuyên bố: “Con trai mới được phép ở lại cái nhà này, nếu là vịt trời nữa thì cút ra khỏi đây. Nhà tôi không dư cơm gạo nuôi lũ nữ sanh ngoại tộc.”
Lúc ấy cô đang tất bật trong bếp lo thức cúng cộng ăn uống cho ba mươi con người. Lần đầu tiên trong bảy năm hôn nhân, cô ngẩng đầu trừng mắt nhìn thẳng vào anh ta: “Chúng đều là con anh, máu thịt của anh, sao anh có thể nhẫn tâm như vậy?”
Anh ta cười khùng khục, hơi thở nồng nặc mùi rượu, mùi gà rô-ti do chính tay cô làm: “Con thì sao? Nuôi nó lớn tốn bao công bao của để rồi lại giống cô à?”
...
Tháng năm, cô trở dạ sinh non vì trượt ngã trong chuồng lợn. Em chồng đi học xa, mẹ chồng bận sang thăm con gái nhà hàng xóm vừa sinh được quý tử đầu lòng, bố chồng vừa nghe con bé Ngọc Thư khóc gào đã bảo chuyện sinh nở dơ bẩn của đàn bà – ông không dây vào. Con bé Ngọc Chi nhìn chị co rúm ngồi cạnh người mẹ máu me lênh láng giữa đám heo hồi lâu rồi mím môi, lầm lũi đi như chạy sang nhà bác Bảy đầu ngõ. Bác Bảy chẳng bà con gì nhưng rất thương chị em nó, thường hay vuốt tóc còn len lén dúi cái bánh que kẹo mỗi lần gặp nó lang thang trong xóm, chẳng giống những người nó bị buộc phải gọi là ông bà, là bố, là cô. Họ ăn cá thịt còn mẹ con nó chỉ gặm xương, nhai rau già. Họ ngủ phòng kín gió, chăn êm đệm ấm trong khi ba mẹ con nó ở chái tranh cạnh bếp, hạ nóng cháy da, đông rét buốt thịt. H