
bao xuân thu tươi đẹp, nhớ lại Ô Trấn một thời năm tháng như nước chảy triền miên.
Khi đến, đã biết số phận định là cô độc. Không có dáng vẻ vội vã, không có
tâm tình buồn vui, trong ban mai của buổi chớm thu, chỉ bình thản đi lại như thế. Là duyên phận dẫn dắt, hay là số mệnh an bài, đều không quan
trọng. Đến Huệ Sơn, sẽ tìm kiếm những gì? Là bóng dáng dần nhạt nhòa của vương triều thời cổ, thiên hạ đệ nhị tuyền nức danh trong trường đình
biệt viện, cổ sát Giang Nam giữa chốn non xanh thâm u, hay là vườn cảnh
cổ xưa quanh co lắt léo? Non nước tú lệ của vùng Huệ Sơn Vô Tích có thể
nói cho chúng ta những điều gì?
(1) Thiên hạ đệ nhị tuyền
Cơn gió thuở chớm thu đã se sắt hơi lạnh, thỉnh thoảng lá rụng lác đác bay
lả tả, người đi chầm chậm thả bước trên đường, nhưng không hề cảm thấy
tiêu điều.
Một tia nắng đã khiến tâm tình dễ chịu hơn, thử đi tìm một nơi có nước chảy, đi tìm tiên sinh mù kéo nhị hồ A Bỉnh[14'> năm xưa.
[14'> A Bỉnh tiên sinh: tên thật là Hoa Ngạn Quân, nhạc sĩ dân gian, đồng
thời là đạo sĩ. Vì mắc bệnh nên mắt bị mù, ông khổ công nghiên cứu âm
nhạc Đạo giáo, không ngừng nâng cao, và hấp thu rộng rãi các làn điệu âm nhạc dân gian, cả đời tổng cộng sáng tác và diễn tấu hơn 270 khúc nhạc
dân gian. Hiện còn bảo tồn được sáu bài, gồm: “Nhị Tuyền ánh nguyệt”,
“Thính tùng”, “Xuân hàn phong khúc” (nhị hồ) và “Đại Lãng đào sa”, “Long thuyền”, “Chiêu Quân xuất tái” (tì bà).
Nhị Tuyền, dường như mọi thứ ở nơi đây đều liên quan đến suối mát trong lành.
Con đường nhỏ lát đá xanh, cho dù đã in dấu chân của biết bao người đi, vẫn cổ kính rêu xanh. Sàn đá nơi này dường như vĩnh viễn mang dấu ấn ẩm
ướt, những quá khứ không thể xóa nhòa đó vẫn trong trẻo như xưa giữa
dòng năm tháng già nua.
Hành lang dài quanh co tọa lạc giữa đầm,
một cơn gió nhè nhẹ thổi qua. Dựa lan can ngắm hoa sen, những cánh hoa
tàn tạ, đài sen căng đầy nuôi những hạt sen non, khiến người ta cảm nhận được một niềm vui sướng của sự thu hoạch. Nhà thơ thời Đường Lý Thương
Ấn có thơ rằng: “Lưu đắc tàn hà thính vũ thanh.” (Giữ được sen tàn nghe
tiếng mưa) Cỏ cây chốn nhân gian, khô héo là chuyện thường. Ngàn vạn sự
vật nơi thế gian đều là phong cảnh, chỉ là tâm trạng khi ngắm cảnh khác
nhau mà thôi.
Hai cánh cửa lớn màu vàng sẫm mở ra chào du khách,
dường như vô tình nhắc nhở người ta, nơi đây đã từng phồn hoa và đầy thi vị. Khẽ chạm vào khóa đồng trên khoen cửa, mong sao có thể trùng với
dấu tay của một văn nhân hoặc một trí giả thời cổ nào đó. Có lẽ như Thế
Âmới có thể xuyên qua thời gian không gian mưa gió, cùng người ấy có một mối tâm ý tương thông thoảng qua.
Bước vào bậu cửa, lọt vào tầm
mắt là năm chữ lớn: Thiên Hạ Đệ Nhị Tuyền. Trắng đen đan xen hút mắt,
những điêu khắc im lìm trên vách đá, cho thấy danh hiệu đẹp hết sức đặc
sắc của chúng. Mái hiên trên tường đá dây leo phủ kín, một vài cành cây
xanh mướt tự do vươn dài ra những hướng khác nhau, cho đến nơi mà chúng
muốn dừng lại – chốn về của đời người.
Trường đình cách đó không
xa vang lên khúc cổ cầm dìu dặt réo rắt, ở đó có một cụ già diễn tấu bản “Nhị Tuyền ánh nguyệt” cho người khác nghe. Một thân áo dài màu xanh,
đôi tay đầy nếp nhăn, khung cảnh mơ hồ, luôn khiến người ta ngộ nhận
rằng ông chính là tiên sinh A Bỉnh năm nào. Mà những ngày trăng sáng sao thưa của năm xưa đó, khi A Bỉnh đến nơi non xanh suối biếc diễn tấu nhị hồ, liệu có diễn ra một cuộc tương phùng rượu trắng một bầu hay không?
Tháng năm như nước, vẫn luôn tham luyến cuộc vui. Những câu chuyện được cất
giấu nơi sâu thẳm của thời gian, hoặc phồn hoa, hoặc lạnh lẽo, đến nay
đều không còn tồn tại. Mà người đời sau đi xuyên qua những hành lang
thông tới qua khứ, rốt cuộc có thể tìm được những gì?
Khi chúng
ta cúi xuống nhìn Nhị Tuyền danh chấn thiên hạ đó, trong lòng khó tránh
nảy sinh cảm giác hụt hẫng khôn xiết. Hàng lan can sắt ngăn du khách ở
bên ngoài giếng cổ, năm đó mạch suối có hai nguồn chảy sống động biết
bao, đến nay đã thành dòng nước chết. Không còn nhìn thấy nước trong văn vắt chảy róc rách sủi bọt trắng, còn đâu thảm rêu xanh rì ẩm ướt ven
bờ. Chiếc giếng cổ có thành giếng bằng xi măng bị hàng rào bao quanh,
trở thành một phong cảnh cho du khách thưởng lãm.
Năm ấy, đặc sứ
từ kinh thành tới, đường dài rong ruổi chỉ vì muốn lấy nước Nhị Tuyền,
đem dâng cho đế vương đun trà nấu nước. Nhưng nước suối đã khô cạn, niên đại tinh tế phong nhã ấy đã dần dần lùi xa. Một ly trà thơm, vài quyển
thi thư, ngày tháng mộng sâu thăm thẳm bên ô cửa sổ nhỏ không biết đã đi về đâu, mà lịch sử thì chưa từng kể lại.
Đi men theo con đường
lát đá có mấy phường trà cổ kính, trang nhã mở gần hành lang, dăm du
khách ngồi xuống nghỉ chân thưởng trà. Cho dù nước không phải là nước
của Nhị Tuyền, trà cũng không pha ra được mùi vị năm xưa, chỉ là thân ở
chốn cổ tích non ngàn, đã tự nhiên có một tâm tình nhàn tản khác biệt
rồi.
Gió lười biếng thổi, mây trôi tự tại. Ngồi trên ghế trúc,
uống một bì