
nh nhàn trà, từ khi vị đặc đến khi vị nhạt, từ ấm sang nguội. Trà của Nhị Tuyền thích hợp cho những người hoài cổ thưởng thức; trăng
của Nhị Tuyền thích hợp cho những người ưa nằm mộng ngắm trông.
Thiều quang đến đi lặng lẽ, cũng như rất nhiều duyên phận không thể nói thành lời, khởi diệt bất định. Rời Thiên hạ đệ nhị tuyền, những người đó lại
vội vã bước đi, và sẽ đến một cuộc hẹn chưa từng gặp gỡ khác.
(2) Huệ Sơn cổ sát[15'>
[15'> Cổ sát: chữ Phạn, “sát sắc” là chùa Phật, “cổ sát” là cảnh chùa xưa.
Chùa miếu còn chưa thấy, đã nghe thấy tiếng chuông vang vẳng thinh không,
dường như đang chiêu gọi những linh hồn tìm kiếm thắng cảnh chốn thâm u. Giang Nam có rất nhiều chùa cổ, chùa Huệ Sơn chỉ là một trong hàng vạn
số đó. Gặp gỡ nơi này, chính là túc duyên mà Phật nói tới.
Men
theo bậc thang đi lên trên, đi qua mấy tầng cửa cổ, xuyên qua cổ thụ um
tùm. Ngước mắt nhìn bốn chữ khiến người ta chăm chú dán mắt: Bất Nhị
Pháp Môn[16'>. Đây có phải là tượng trưng cho một loại chấp trước hay
không? Có lẽ người bước vào cửa Phật, tin nghe nhân quả, là thực sự
không còn nảy sinh trần niệm. Có người nói, đây là một loại lánh đời,
cũng có người nói, đây là tu hành. Tóm lại, tại bồ đề đạo tràng này,
nghe chuông trống Phạn âm là có thể trải qua cuộc sống thanh tịnh vô cầu một bát thiền trà, một chiếc mõ như thế.
[16'> Bất Nhị Pháp Môn:
Còn gọi là Pháp Không Hai, là một pháp môn trong đạo Phật, dành cho các
hành giả ở cõi Ta Bà đi khỏi lạc đường. Cốt yếu của pháp môn này là để
chứng minh rằng: “Những sự vật, sự việc ở cõi Ta Bà này là có thật”, cốt để đưa chúng sinh thoát khỏi chấp trước, trở về với chân như, Phật
tính.
Trong đại điện, các tăng nhân đang làm pháp sự, họ đọc
tiếng Phạn, khiến khách dâng hương thoát ly phàm trần, bước vào thiền
cảnh xa xăm. Rất nhiều người không thể thực sự thấu hiểu Thiền ý, không
hiểu bồ đề nở hoa, nhưng lại cam tâm tình nguyện giam mình trong một
quyển kinh thư, tự tại đến đi trong biển Phật mênh mông. Còn đức Phật
vẫn dùng đôi mắt từ bi hiền hòa như cũ cúi nhìn chúng sinh mờ mịt, độ
cho hết thảy những người có thể độ trên thế gian.
Đi qua Bất Nhị
Pháp Môn lại là một thắng cảnh khác. Trên thềm đá là một tòa điện đường
cổ kính tọa lạc, tên gọi là Đại Bi. Mà đằng sau của Đại Bi các chính là
Huệ Sơn ẩn hiện. Ngước mắt dõi trông, trên tường đá còn khắc bốn chữ lớn “Tây Trúc Lưu Ngân”. (Tây Trúc lưu dấu) Nó đã dẫn chúng sinh đến Thủy
Thiên Phật quốc xa xôi chỉ trong một sát na ngắn ngủi. Đứng sững dưới
trời xanh mây trắng, ngắm nhìn vách núi miếu đài, ta thấy sinh mệnh nhỏ
nhoi mà mênh mang biết mấy.
Sáng sủa sạch sẽ, tự viện dường như
vĩnh viễn không vương bụi trần, đến mái ngói xanh cũng sạch lau sáng
bóng. Mái hiên cong cong, cô độc ngạo nghễ dõi nhìn phương xa, không
phải chờ đợi ai, cũng không phải tiễn biệt ai. Từng cánh cửa sổ cũ kỹ
hoặc đóng hoặc mở, trên đó chạm trổ những hoa văn muôn hình vạn trạng,
tinh xảo đẹp mắt, mà cũng không kém phần trang nhã thanh tịnh. Những
người đến nơi này đều không kiềm lòng mà mơ một giấc mộng về Giang Nam.
Buổi hoàng hôn mưa gõ nhịp trên lá chuối, các tăng giả đẩy cửa nghe mưa với
tâm trạng gì? Trong đêm trăng sáng như sương, họ đứng trước cửa sổ ngắm
trúc với tâm thái gì? Những cảnh tượng phong nhã trữ tình ấy luôn luôn
tồn tại và kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thời gian vô tình, sẽ tước bỏ
rất nhiều ký ức tươi đẹp; thời gian cũng hữu tình, sẽ lưu lại rất nhiều
quá vãng sáng trong.
Phật nói, quay đầu là bờ, không biết có phải tất cả trường hợp quay đầu đều có thuyền bè đợi chờ, chuyên chở chúng
sinh sang bờ bên kia sen nở hay không? Lần tìm theo con đường cũ, lại
qua một tầng cửa đá nữa. Một cây ngân hạnh cổ thụ có niên đại hơn sáu
trăm năm tọa lạc trước miếu, kể cho khách đến chuyện cũ tang thương của
nó. Nghe nói năm xưa, được một tiểu sa di trong chùa trồng, tên của
người ấy đã bị xóa nhòa theo năm tháng thời gian, không ai hay biết. Mà
cây ngân hạnh này lại trường tồn ngàn năm, lá vàng rụng xuống lá xanh
mọc chồi, không màng đến ngày hôm qua.
Trên thế gian thực sự có
cuộc sống vĩnh hằng không? Thế nhân biến chuyển, sớm đã thay đổi hoàn
toàn, nhưng núi đá cỏ cây dường như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Thế sự vô thường, không biết tòa cổ sát nghìn năm này có thể gánh được sương gió
của bao nhiêu năm? Phật nói, tùy duyên tự tại, cho dù có một ngày trùng
phùng hay không, đều không quan trọng.
Một tấm ngự bi[17'> cao
chót vót, trên đó khắc câu thơ năm xưa Càn Long ngâm vịnh khi du ngoạn
chùa Huệ Sơn. Vị hoàng đế nhàn nhã đa tình này đã từng nhiều lần xuống
Giang Nam, quyến luyến vùng bảo địa non nước linh thiêng này, không nỡ
rời xa. Bỗng nhiên, tựa như nhìn thấy bóng dáng của vị đế vương ung dung tài hoa tôn quý này. Tài tử áo gầm xòe quạt, phong lưu phóng khoáng ấy
là Càn Long sao? Ngài ra khỏi cung điện dát vàng khảm ngọc, tới Giang
Nam, đây có phải giấc mộng mà ngài lạc mất hay không?
[17'> Ngự bi: Bia đá do hoàng đế ban tặng.