
i về cuộc sống trước đây của cô, theo lời hắn nói thì ‘Phụ thân thương tiểu muội nhất, không bao giờ để muội ấy phải chau mày. Đại ca việc gì
cũng tuân theo ý muội ấy. Mẫu thân rất ít nói, thích ngao du bốn bể,
thương ta nhất và nghiêm khắc với muội muội’. Dù cô không phải là con
ruột của bà ta, nhưng chắc cô cũng hạnh phúc chứ. Nỗi oán hận của cô từ
đâu mà ra? Những nghi vấn này cứ quanh quẩn trong đầu ta, nhưng mãi vẫn
không biết kết luận thế nào cho nên hôm nay ta đành hỏi thử xem sao, ta
thì bắt nọn quá ghê, mà cô thì thừa nhận quá sớm.”
Lý Nghiên
nghiêng đầu bật cười: “Bị cô bắt thóp, xem như là phục cô rồi. Cô đã bao giờ nghĩ về thân thế của bản thân mình chưa? Cô có phải người Hán
không? Màu da của cô cũng trắng nõn không giống người Hán, tròng mắt cô
nếu nhìn kỹ dưới nắng sẽ thấy lóe lên màu nâu, lại thêm lông mi của cô
chẳng phải cũng dài mà cong đấy ư? Mấy đặc điểm này người Trung Nguyên
cũng có thể có, nhưng cô lại cùng có một lúc cả ba đặc điểm, còn lớn lên ở Tây Vực.”
Tôi gật đầu: “Lúc quan sát cô, ta cũng nghĩ có khả
năng cô là con gái lai Hán Hồ, đồng thời lại liên tưởng đến bản thân
mình, phụ mẫu ta có khi cũng một Hán một Hồ. Nhưng mà ta vốn không quan
tâm đến họ, ta chỉ biết người thân của ta là cha và Lang huynh, cố hương của ta ở bầy sói, cha của ta là người Hán, cha nói ta là người Hán thì
ta chính là người Hán.”
Nụ cười của Lý Nghiên đông cứng lại trên
mặt: “Tuy ta nhìn có vẻ giống người Hán, lại lớn lên ở Trung Nguyên,
nhưng ta không phải là người Hán, vì mẫu thân không cho phép, người chưa bao giờ nhận mình là người Hán cả.”
Tôi kinh ngạc nói: “Mẫu thân của cô là người Hán? Vậy … vậy…” Lý Quảng Lợi kể với tôi rằng mẫu thân
của họ rất nghiêm khắc với Lý Ngiên, khiến tôi lại tưởng là Lý Nghiên
không phải con gái ruột bà.
Lý Nghiên chua xót cười: “Dòng họ thực sự của ta phải là “Thiện Thiện”[3'>.
[3'> Tên một nước cõi Tây nhà Hán, vốn tên là Lâu Lan, nay thuộc tỉnh Cam Túc
Tôi hồi tưởng những gì Cửu gia từng giảng về phong thổ nhân tình Tây Vực: “Thân phụ của cô là người Lâu Lan?”
Lý Nghiên gật đầu cười, nhưng nụ cười ấy ẩn giấu vẻ cay đắng không thể nói thành lời, khiến lòng tôi cũng cảm thấy buồn theo: “Cô đừng cười nữa.”
Lý Nghiên vẫn cười nói: “ Cô có biết về các quốc gia Tây Vực không?”
Sao tôi có thể không biết chứ? Từ bé đã nghe biết bao chuyện về Tây Vực
rồi. Tim tôi khẽ thắt lại, mỉm cười có chút khổ tâm rồi gật đầu.
Tây Vực có tổng cộng ba mươi sáu quốc gia: Lâu Lan, Ô Tôn, Quy Tư, Yên Kỳ,
Vu Điền, Nhược Khương, Thư Mạt, Tiểu Uyển, Nhung Lô, Di, Cừ Lặc, Bì Sơn, Tây Dạ, Bồ Lê, Y Nại, Toa Xa, Sơ Lặc, Úy Đầu, Ôn Túc, Uất Lê, Cô Mặc,
Ti Lục, Ô Tham Tí, Ti Lục Hậu Quốc, Đan Hoàn, Bồ Loại, Bồ Loại Hậu Quốc, Tây Thả Di, Đông Thả Di, Kiếp Quốc, Hồ Hồ, Sơn Quốc, Xa Sư Tiền Quốc,
Xa Sư Hậu Quốc, Sư Xa Úy Đô Quốc, Xa Sư Hậu Thành Quốc.
Lâu Lan
nằm phía ngoài Ngọc Môn Quan[4'>, vị trí địa lý vô cùng quan trọng, cho
dù là Hung Nô tấn công Hán triều, hay là Hán triều tấn công Hung Nô, đều bắt buộc phải đi qua đất Lâu Lan.
[4'> Tục gọi là Tiểu Phương
Bàn, nằm khoảng 90km về phía Tây Bắc của thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam
Túc là một trong những cửa ải quan trọng nối liền con đường tơ lụa với
địa phận Trung Quốc được thiết lập hai lần vào đời Hán và Đường.
Vì Lâu Lan là dân tộc du mục, phong tục khá gần với Hung Nô cho nên trước
sau luôn bị coi là thuộc địa của Hung Nô, trở thành cứ điểm cho quân
Hung Nô cản trở và tấn công thương khách người Hán. Năm đó sau khi Hoàng đế tiếp quản chuyện triều chính, không chịu được cảnh Hán triều luôn
phải giữ thế phòng vệ đối với quân Hung Nô, không cam lòng đem hòa bình
đổi lấy cuộc sống yên thân tạm bợ qua ngày, không muốn cho Hung Nô chặn
đường thông vào Tây Vực của Hán triều, cho nên mới phái sứ thần đi liên
minh với Lâu Lan, dùng cả ân lẫn uy, khiến nước này phải thần phục, biến Lâu Lan thành nước đứng mũi chịu sào.
Hồi xưa cha thích kể cho
tôi nghe những công lao vĩ đại của thiên tử Hán triều năm đó, mà khiến
cho cha say sưa kể nhất chính là chuyện thiên tử Đại Hán thu phục các
nước Tây Vực. Mỗi lần kể đến mấy chuyện này, ánh mắt đượm lo buồn u uất
của cha lập tức trở nên hết sức phấn khởi, tựa như việc Đại Hán khiến
Hung Nô phải xưng thần chỉ là việc sớm muộn, nhưng cùng một câu chuyện
như thế qua lời kể Cửu gia, ngoài sự uy phong của Hán triều như trong
câu chuyện của cha, còn có thêm nhiều điểm khác nữa.
Sứ giả Hán
đi đến các nước Tây Vực hoặc quân đội Hán muốn tấn công Hung Nô, đều
phải qua sa mạc Bạch Long Đôi nổi tiếng trên đất Lâu Lan. Vùng đất này
rất nhiều gió bão, gió cuốn cát cuồn cuộn bay lên không giống như rồng
cuốn, vậy nên mới được gọi là Bạch Long Đôi, địa thế nơi này lại hay
thay đổi, người đi qua rất dễ lạc đường. Hán triều không ngừng lệnh cho
Lâu Lan quốc phải cung cấp người dẫn đường, đồ uống và thực phẩm, chẳng
những vậy, sứ giả Hán còn nhiều lần ngược đãi hướng đạo, quốc vương Lâu
Lan không thể chịu được tình cảnh áp bức này, đã từ chối phục tùng mệnh
lệnh của Đại Hán,