
đó xông vào
trong lán, chúng tôi giật mình, vội vã tách nhau ra. Thì ra là Trình Hùng,
không hiểu vì sao anh ta đột nhiên quay lại.
Trình Hùng quỳ sụp
xuống, khấu đầu:
- Thưa pháp sư, những
ngày qua được pháp sư giáo hóa, con nhận ra rằng con rất muốn được thờ phụng
Phật tổ, cầu xin ngài nhận con làm đệ tử, xin hãy xuống tóc cho con.
Rajiva lắc đầu:
- Anh có vợ có con,
trong nhà lại còn cha mẹ già cả, không thể xuất gia.
Anh ta vừa quỳ vừa lê
đến bên chân Rajiva, van nài khẩn thiết:
- Pháp sư, đệ tử một
lòng hướng Phật, nguyện từ bỏ vợ con và gia đình, chỉ mong được thành Phật.
- Bỏ vợ bỏ con sao có
thể thành Phật được! Làm con, làm chồng, làm cha là trọng trách trời ban, sao
anh có thể bất hiếu, bất nghĩa như vậy!
Rajiva chau mày:
- Anh có lòng hướng
Phật là rất tốt, nhưng muốn được thành Phật không nhất thiết phải xuất gia, anh
có thể tu tại gia. Trình Hùng băn khoăn không hiểu và không chịu đứng lên:
- Xin pháp sư chỉ dẫn
cho con cách tu hành tại gia!
Rajiva đỡ anh ta đứng
dậy, nghiêm nghị hỏi:
- Cư sĩ phải tuân thủ
năm điều giới luật: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói
dối, không uống rượu. Anh có thể nghiêm chỉnh tuân thủ giới luật, làm việc
thiện và tu dưỡng đạo đức không?
- Dạ thưa…
Anh ta ngập ngừng,
ngẩng đầu nhìn Rajiva, vẻ mặt đầy ăn năn:
- Bàn tay đệ tử đã
nhuốm máu mấy chục mạng người, giết người gây tội ác, đệ tử tự thấy mình tội
lỗi chất chồng. Từ nay về sau, xin hứa nghe theo lời thầy, tuân thủ nghiêm ngặt
giới luật, làm việc thiện, cầu mong sao được giải thoát.
- Trong tâm có Phật,
đó mới là điều căn bản.
Rajiva gật đầu: - Ta
sẽ thọ giới, để anh làm cư sĩ tại gia. Sau khi thọ giới, Trình Hùng hoan hỉ ra
về, đây là vị cư sĩ đầu tiên trong đoàn quân. Chờ khi chỉ còn lại hai chúng
tôi, tôi hỏi Rajiva:
- Anh ta là quân nhân,
không giết người e là không thể. Tội phá giới sẽ nghiêm khắc hơn nếu anh ta
không làm cư sĩ.
Rajiva gật đầu, thở
dài:
- Nếu anh ta biết tuân
thủ giới luật, trong lúc giao tranh, không lấy mạng của đối thủ, như vậy đã lập
công đức to lớn lắm rồi!
Trình Hùng đã chép ra
rất nhiều bản “Kinh Phật nói cha mẹ ơn trọng, khó báo đáp”, sau đó cuốn kinh
này được truyền đi rất nhanh trong đoàn quân. Rất nhiều người đã đến thỉnh giáo
Rajiva về Phật pháp, hoặc đến hỏi tôi những chữ không đọc được. Cuốn kinh
này giản dị, dễ hiểu, dễ thấm, nên chẳng mấy chốc, đã dấy lên lòng hướng thiện
trong toàn quân.
Mùa hè năm 385 sau
Công nguyên, thời tiết oi bức dị thường, mấy tháng liền không có lấy một giọt
mưa. Tháng Tám năm đó, khi chúng tôi tưởng chừng không thở nổi với cái nắng
nóng nơi đây, quân đội của Lữ Quang đã tiêu diệt hoàn toàn quân chủ lực của
Lương Hy và tiến vào Ngọc Môn Quan.
Hoàng hà, mây trắng
liền nhau
Thành côi một mảnh,
núi cao tiếp trời
Thổi chi Chiết Liễu
sáo ơi
Gió xuân đâu lọt ra
ngoài Ngọc Môn[1'>
[1'> Bài thơ “Khúc
Lương Châu” – Vương Chi Hoán, bản dịch của Tương Như. Khúc Chiết liễu thời xưa,
phổ cho sáo, gợi nỗi buồn người đi chinh chiến hoặc kẻ xa nhà.
Cửa ải cô liêu đứng
sừng sững trên núi cao này được biết đến nhờ những chuyến hàng ngọc Khotan được
chuyên chở qua đây để vào Trung Nguyên. Vào thời cổ đại, khái niệm biên giới
quốc gia không rõ ràng như thời hiện đại, cửa ải Ngọc Môn chỉ được hiểu là nơi
phân chia ranh giới giữa Tây vực và Trung Nguyên, tiến vào Ngọc Môn Quan tức là
đã đặt chân lên mảnh đất Trung Nguyên rộng lớn.
“Mưa mai thấm bụi Vị
Thành
Liễu bên quán trọ sắc
xanh ngời ngời. Khuyên anh hãy cạn chén mời Dương Quan ra khỏi ai người cố
tri[2'>”
[2'> Bài thơ “Tiễn bác
Hai Nguyên đi sứ An Tây” – Vương Duy, bản dịch của Tương Như.
Phải qua cửa ải Dương
Quan, bạn mới có thể tiến vào thành phố phồn hoa nhất ở cực Tây – thành Đôn
Hoàng. Hán Vũ Đế đã “lập bốn quận, dựng hai ải” trên hành lang Hà Tây. Bốn quận
đó là Vũ Uy, Trương Dịch, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, hai cửa ải là Ngọc Môn Quan và
Dương Quan. Bốn quận nêu trên, đồng thời là bốn thành phố quan trọng nhất trên
hành lang Hà Tây, cả bốn thành phố vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến
tận thế kỷ XXI, ngay cả tên gọi cũng vẫn được giữ nguyên sau hơn hai
nghìn năm.
Hai cửa ải chiến lược
Ngọc Môn Quan và Dương Quan, đến đời Tống thì đã không còn thuộc lãnh thổ của
nhà Tống nữa. Cùng với sự suy yếu của con đường tơ lụa, hai cửa ai này dẫn trở
nên hoang phế, sau cùng đã bị vùi sâu trong gió cát. Đến thế kỷ XXI, nơi đây
chỉ còn lại dấu tích của một vài phong hỏa đài, đứng chơ vơ giữa sa mạc mênh
mông, khiến hậu thế không khỏi thổn thức khi ngâm ngợi những vần thơ đầy hào
khí đời Đường, tưởng niệm những năm tháng huy hoàng, hào hùng.
Tôi đặt chân đến thành
Đôn Hoàng với lòng thành kính và ngưỡng vọng, đây là vùng thánh địa thiêng
liêng mà mọi người ở thế kỷ XXI đều mong muốn được ngắm nhìn. “Đôn nghĩa là to
lớn, Hoàng nghĩa là phồn thịnh”. Đối với con người thời hiện đại, ý nghĩa
của thành Đôn Hoàng nằm ở những bức bích họa trên những động đá kỳ vĩ đã trải
qua hàng nghìn năm, là nỗi sỉ nhục