
i chép: Ngày hai
mươi tháng mười hai âm lịch năm 401 sau Công nguyên, Rajiva đã được bố tướng
của Diêu Hưng là Diêu Thạc Đức đón về Trường An, đến nay đã hơn một tháng,
chàng đâu thể một thân một mình lặn lỗi giữa đám đông nạn dân này chứ! Tôi định
bỏ đi, nhưng lại dừng bước, gặng hỏi:
- Xin thầy cho hỏi,
thầy có biết pháp sư Kumarajiva từng sống nhiều năm ở Guzang nay ở nơi nào
không?
Nhà sư thoáng ngạc
nhiên, sau đó thì ra sức huy động não bộ tìm kiếm từ vựng, rồi thốt ra từng
tiếng một đầy khó khăn:
- Ừm… Kumoluojiba… đã đến Trường An. Bần tăng đến Trường An, để tìm gặp ngài…
Tôi giật mình, nhà sư
gọi tên tiếng Phạn của Rajiva! Tôi lập tức chuyển sang trò chuyện
bằng tiếng Tochari:
- Đại sư quen biết
ngài ư? Nhà sư hết sức ngạc nhiên, há miệng, tròn mắt nhìn tôi, sau đó thì mặt
mày rạng rỡ, bắt đầu cuộc chuyện với tôi bằng tiếng Tochari lưu loát:
- Thật không ngờ ở
Trung Nguyên cũng có người biết tiếng Khâu Từ!
Ngài chắp tay vái tôi
một vái, rồi nói tiếp:
- Bần tăng vốn là
người Kashmir, tên gọi Buddhayassa (Phật Đà Da Xá). Kumarajiva từng theo bần
tăng học đạo, ngài đồng thời cũng là bạn hữu của bần tăng.
Đến lượt tôi kinh
ngạc, Buddhayassa, tất nhiên là tôi biết ngài. Thuở thiếu thời, trên đường từ
Kashmir trở về Khâu Từ, Rajiva có ghé qua nước Sulaq. Buddhayassa lúc này đang
tiếp nhận sự hậu đãi của Thái tử nước Sulaq. Rajiva quyết định theo
thầy học đạo. Thầy Buddhayassa coi Rajiva như bạn tri âm, khi Rajiva tỏ ý muốn
trở về Khâu Từ, thầy đã cố công giữ chàng lại. Những chuyện này xảy ra trước
khi tôi gặp Rajiva.
- Đại sư đến Trường An
tìm gặp pháp sư, vậy là Rajiva đã đến Trường An rồi ư?
- Đúng thế. Đức vua
Đại Tần phòng ngài làm quốc sư, cử sứ giả đi Guzang đón ngài, tháng trước ngài
đã đến Trường An. Bần tăng vượt bao gian nan đến Guzang tìm ngài, nhưng không
gặp được, đành tiếp tục hành trình đến Trường An.
Đại sư nhìn tôi đầy vẻ
băn khoăn:
- Không biết vì sao
thí chủ lại hỏi thăm về Kumarajiva? Tôi mỉm cười:
- Tôi và pháp sư
Kumarajiva có mối quan hệ khá đặc biệt, đôi lời ngắn ngủi chẳng thể nói cho rõ.
Tôi cũng đang định đến Trường An tìm ngài, chẳng hay đại sư có bằng lòng đi
cùng tôi không?
Đại sư nhìn cỗ xe bò
của tôi, lại thấy tôi chỉ có một mình, nên hơi do dự. Tôi bật cười:
- Chúng sinh bình
đẳng, tứ tưởng[1'> vốn chỉ là hư ảo tướng. Đại sư thời trẻ từng nổi tiếng
là bậc danh sư với tư tưởng rộng rãi, khoáng đạt. Vì sao bây giờ lại trở nên
câu nệ chuyện người nam người nữ nhường vậy?
[1'> Phật Thích Ca gọi
tất cả hiện tượng trong vũ trụ, nhân sinh là “Tướng”. Tướng tức là tương đối,
là biến hóa, là hữu hạn, là không thật, do đó khiến chúng sinh mê vọng. Ngày
cũng chia các “Trướng” thành bốn loại: Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sinh Tướng,
Thọ Giả Tướng, gọi chung là Tứ tướng. Bốn tướng này đại diện cho tất cả các
hiện tượng của nhân sinh vũ trụ tương đối, có thể dùng để giải thích nội tâm
của con người đối với vũ trụ vạn vật, và những ý niệm sai lầm này sinh từ đó.
Đại sư kinh ngạc nhìn
tôi:
- Do đâu thí chủ lại
biết chuyện của bần tăng ngày trẻ?
Tôi cười, đáp:
- Chồng tôi đã kể cho
tôi nghe.
Ngày trước, Rajiva
từng kể cho tôi nghe những chuyện thú vị về vị sư phụ này của chàng.
Buddhayassa sinh ra thuộc dòng dõi quý tộc Bà-la-môn. Mười ba tuổi xuất gia,
mười chín tuổi đã đọc rất nhiều kinh văn kinh điển. Nhưng tuổi trẻ bồng
bột, kiêu ngạo, ngài cho rằng trên đời này hiếm người có thể trở thành thầy của
ngài, vì vậy ngài không được lòng chúng tăng Kashmir. Hai mươi tuổi, ngài đủ
tuổi thọ Cụ túc giới, nhưng không ai chịu thọ giới cho ngài. Mãi đến năm hai
mươi bảy tuổi, ngài mới tìm được một vị đại sư đồng ý thọ giới cho mình.
Đại sư rất lấy làm lạ
khi nghe câu trả lời của tôi:
- Chồng thí chủ ư?
Tôi gật đầu, hướng mắt
về phía Đông:
- Chồng tôi chính là
người bạn chí thân của ngài – pháp sư Kumarajiva.
- Chuyện này…
Đại sư đã thật sự sửng
sốt, ngài lùi lại, nhìn tôi muôn phần kinh ngạc:
- Phu nhân của pháp sư
đã qua đời mười sáu năm trước kia mà.
Tôi thấy buồn cười khi
nhìn điệu bộ của ngài. Sở dĩ tôi nói với ngài sự thật vì tôi rất có cảm tình
với ngài. Ngài là người đầu tiên truyền giảng giáo lý Đại Thừa cho Rajiva. Năm
mười ba tuổi, sau khi trở về Khâu Từ, Rajiva vẫn tiếp tục giữ liên lạc với
ngài. Hai người vừa làm thầy trò, vừa là bạn tâm giao. Khi tin tức Rajiva phá giới
lan truyền khắp nơi, ngài là người duy nhất trong số các vị cao tăng đức cao
trọng vọng ở Tây vực công khai lên tiếng bênh vực chàng. Ngài đến Trường An trợ
giúp Rajiva dịch thuật kinh Phật, chuyện của tôi và Rajiva, sớm muộn ngài cũng
sẽ biết, chi bằng thành thật thưa rõ ngay từ đầu.
- Rajiva chắc chắn
chưa bao giờ công bố chính thức việc tôi qua đời. Đó chỉ là lời đồn nhảm của
thiên hạ mà thôi.
Tôi nhìn ngài, mỉm
cười:
- Tôi về quê thăm mẹ,
quan san cách trở, mười sáu năm mới lại lặn lội đến tìm chồng.
Ngài quan sát tôi rất
tỉ mỉ, nhưng lại lắc đầu:
- Xin thí chủ chớ nói
lời dối trá, trông cô nhiều nhất cũng chỉ kh