
oảng hai mươi ba, hai mươi tư tuổi,
sao có thể trở thành vợ của pháp sư từ mười sau năm trước?
Tôi bật cười khanh
khách. Thời cổ đại, nhất là khi có chiến tranh loạn lạc, tuổi thọ trung bình
của con người chỉ khoảng bốn, năm mươi tuổi. Phụ nữ thiếu thốn dinh dưỡng,
không có mỹ phẩm chăm sóc bảo vệ, lại sinh đẻ sớm, nên già nua nhanh chóng.
- Thưa thầy, tôi đã ba
mươi lăm tuổi rồi, chỉ là nhìn vẻ ngoài thì có vẻ trẻ hơn so với tuổi mà thôi.
Tôi thêm vào tuổi của
mình hai năm, như thế tức là tôi kết hôn năm mười tám tuổi, hợp lý quá còn gì.
- Mười bảy năm trước,
Phù Kiên cử Lữ Quang dẫn quân tiến đánh Khâu Từ. Ngài đã thuyết phục vua
Sulaq đích thân cầm quân viện trợ Khâu Từ, nhà vua đã lên đường và giao việc
nước cho ngài. Nhưng viện binh của Sulaq chưa đến nơi, Khâu Từ đã thất thủ. Vua
Sulaq quay về thông báo với ngài, rằng Rajiva bị ép buộc thành thân, và đã bị
Lữ Quang đưa đi khỏi Khâu Từ. Ngài những tưởng cả đời này sẽ không
được gặp lại Rajiva nữa, trong lòng muôn phần buồn bã.
Tôi đón lấy ánh mắt
kinh ngạc của đại sư, khẽ cúi người vái lạy ngài:
- Đó là nội dung bức
thư ngài viết cho Rajiva năm xưa. Thư được gửi đến Khâu Từ, quốc sư Pusyseda,
em trai Rajiva thay chàng nhận thư và cất giữ, sau đó đệ tử của Rajiva là
Badyetara đã mang thư đến Guzang cho chàng.
Năm đó, hai mươi tư đệ
tử của Rajiva đã vượt đường xa dặm thẳng, cuối cùng cũng giao được bức thư tới
tận tay chàng.
Đại sư đã hoàn toàn
tin tôi. Ngài lắc đầu thở dài, nước mắt ngắn dài, ướt nhèm tròng mắt nhăn nheo,
già cả.
- Bần tăng lưu lại
Sulaq hơn mười năm, sau đó nhận được thư mời của Đức vua Khâu Từ, bần tăng liền
tới đó giảng đạo. Ba năm trước, bần tăng nhận được thư của Rajiva, đó là
bức thư đầu tiên bần tăng nhận được kể từ khi pháp sư đến Trung Nguyên. Mười
mấy năm bặt vô âm tín, khi biết pháp sư ở Guzang chịu muôn vàn gian khổ, bần
tăng rất mong được đến giúp pháp sư. Sau khi nhận được thư, bần tăng những muốn
sẽ lên đường ngay, nhưng Đức vua Khâu Từ quá ư hiếu khách. Sau đó, bần tăng đã
phải bỏ trốn, nhưng tiếc thay, sau nửa năm trời vượt ngàn dặm xa xôi đến được
Guzang, thì Rajiva đã đi Trường An.
Tôi đưa tay lau nước
mắt:
- Mời đại sư lên xe
rồi chúng ta nói chuyện tiếp. Chúng ta phải lên đường gấp, tôi rất mong
ngày mai sẽ gặp được Rajiva.
Đại sư đi chung xe bò
với tôi, chúng tôi thay phiên nhau đánh xe, trên đường đi, chúng tôi đã trò
chuyện rất nhiều. Tôi đã kể ngài nghe Rajiva chịu sự chèn ép của cha con họ Lữ
ra sao, chúng tôi đã trải qua nạn đói ở Guzang thế nào. Khi mặt trời xuống núi,
chúng tôi đã vượt qua hơn ba mươi dặm đường. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi bên
một dòng sông nhỏ, tôi lấy lương khô ra mời ngài, nhưng ngài lịch sự từ chối và
cho tôi biết, ngài chỉ dùng bữa một lần trong ngày.
Tôi ra sông trữ nước
vào túi da, bóng chiều đổ trên mặt sông lấp lóa. Tôi đứng lên, nheo mắt tránh
ánh hoàng hôn rực rỡ, phía trước hẳn là có thôn làng, đêm nay chúng tôi sẽ tạm
nghỉ chân tại đó.
Trở lại chỗ dừng xe,
tôi thấy đại sư đang đấm lưng, co duỗi chân tay, thư giãn gân cốt. Tôi đưa túi
nước cho ngài, ngài cảm ơn và đón lấy, lấy lưới lọc nước ra lọc qua một lần,
đưa lên miệng uống một ngụm, sau đó, ngài nhìn tôi rất chăm chú, rồi đột nhiên
bảo:
- Trong thư, pháp sư
có nhắc đến phu nhân.
Tôi hồi hộp, ngước
nhìn ngài. Đại sư thở dài, khẽ lắc đầu: - Pháp sư nói rằng, ngài không bao giờ
hối hận vì đã phá giới và thành thân…
Nước mắt tôi cứ thế lã
chã. Đại sư nhìn tôi, bóng tịch dương đổ lên những sợi râu của ngài lớp ánh
sáng vàng ruộm rực rỡ. Ngài uống thêm một ngụm nữa, hướng mắt về phía mặt trời,
giọng ngài thâm trầm:
- Rajiva như bông lụa.
Sao lại bỏ vào rừng cỏ gai?
Tôi hiểu ý ngài.
Rajiva quả thật rất hoàn hảo, chàng tựa như bông lụa trắng, tinh khiết.
Nhưng vì sinh bất phùng thời, bông lụa trắng phải nép mình giữa đám bụi gai,
không tránh khỏi có kẻ xấu bụng muốn hủy hoại sự thánh khiết của bông lụa ấy.
Đại sư cho rằng, Rajiva không đủ kiên định, nên mới phạm phải sai lầm, khiến
các bậc tu hành khác khinh miệt. Ngài là bạn tâm giao của Rajiva, tuy ngài đồng
cảm với Rajiva khi chàng gặp nạn, nhưng về điểm này, ngài vẫn giữ
quan điểm giống những tăng sĩ khác. Các nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo cũng
đã dựa vào câu nói này của ngài để đánh giá, bình xét về Rajiva.
Tôi muốn biện bạch,
nhưng sau cùng đã quyết định im lặng, chỉ bình thản mỉm cười. Chúng tôi đâu cần
bận lòng về cách nghĩ của người khác. Chuyến đi này của tôi chỉ được vỏn vẹn
nửa năm, tôi muốn dành trọn thời gian đó để ở bên chàng, không muốn lãng phí
cho bất cứ việc gì khác.
- Đại sư, không còn
sớm nữa, chúng ta hãy lên đường đến thôn làng trước mặt…
Tiếng vó ngựa ầm ầm
nện trên đường ngắt ngang lời tôi. Một toán người, ngựa đang phi nước đại về
phía chúng tôi. Đại sư Buddhayassa quan sát một lúc, đột nhiên mặt mày
biến sắc, cuống quít:
- Mau lấy bùn bôi lên
mặt!
Tôi ngạc nhiên không
hiểu, đại sư vội khom lưng nhặt một hòn đất:
- Đó là đám kỵ binh
của nước Tần, những ngày q