
ng Phủ Tỉnh mới bắt đầu xây dựng vào thời
Nguyên, vào thời nhà Minh, Vĩnh Lạc đế muốn lôi kéo chư vương nên đã dựng lên
mười tòa vương phủ ở ngoài cửa Đông An, đó là lý do vì sao đường phố này được gọi
là 'phố Thập vương phủ', về sau không biết vì sao Uyên Vu uống một ngụm nước giếng
trên phố lại đổi thành 'Vương Phủ Tỉnh'. Trước đây đi dạo ở Vương Phủ Tỉnh, đều
là các phố chợ lớn ở quảng trường phía Đông, Tân Đông An, các đại lầu bách hóa
và cửa hàng khổng lồ của thương nhân, hiện tại nhìn đường phố này, ngoại trừ mặt
đường rộng rãi cũng chỉ có tường vây. Còn có miệng giếng nổi tiếng cả nước,
cũng chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là giếng bình thường mà thôi. (vẫn là chính
phủ Bắc Kinh thời hiện đại có sáng tạo, dùng đá cẩm thạch màu hồng đỏ vẽ hoa
văn lên bệ giếng, trên miệng giếng che phủ một bức phù điêu hình tròn đúc bằng
đồng, mười con rồng xoay quanh văn tự ghi chép về Vương Phủ Tỉnh).
Không ngờ lần đầu tiên lại thấy Vương Phủ Tỉnh yên tĩnh lạnh
lẽo như thế! Trên đường không hề có bất kì cửa hàng nào, phụ cận đều là phủ đệ
của quý tộc bát kỳ, rất xứng với tên 'phố vương phủ'.
Xe ngựa chạy chậm rãi, rốt cuộc phía trước cũng xuất hiện một
tòa kiến trúc khác biệt với tường vây và cửa chính phủ đệ, nhìn nóc nhà nhọn hoắt
và giá chữ thập treo cao liền biết đây là một nhà thờ. Có lẽ là tiền thân của 'Đông
Đường'! Đông Đường ở thế kỉ hai mươi mốt là dùng 'tiền bồi thường canh tử'(*) để
xây dựng lại, nghe nói tòa giáo đường này đã bị thiêu hủy nhiều lần nên hiện tại
và lúc đầu không còn giống nhau nữa.
(*) là tiền bồi thường chiến tranh trong "hiệp ước bất
bình đẳng" của chính quyền nhà Thanh kí kết với 11 nước phương Tây ngày 7
tháng 9 năm 1901. Vì liên quân tám nước xuất binh chống lại phong trào Nghĩa
Hòa Đoàn ở Trung Quốc năm 1900 (năm Canh Tử), nên được gọi là bồi thường canh tử.
Tôi bảo tiểu tử kia dừng xe trước cổng giáo đường, cậu ta
nói thầm gì mà bọn man di bên trong rất cổ quái, tôi chẳng để ý đến cậu ta, cực
kì hứng thú chạy vào bên trong. Đại sảnh giáo đường trống trải không người, bãi
đá đằng trước đặt một pho tượng chúa Jesus bị nạn (chúa Jesus mặc y phục nha,
thật mới mẻ), bên cạnh có vài ngọn nến cháy sáng. Tôi quỳ gối trước ông, hai
tay hợp thành chữ thập nhắm mắt lại (điển hình cho cách cầu nguyện của người
Trung Quốc). Trước kia tôi cũng đến nhà thờ, phần lớn là trong lúc bế tắc, cảm
thấy không gian nơi này rất thích hợp để tự suy ngẫm, bình thường cũng chẳng nhớ
đến Thượng Đế.
Tôi cũng không cầu xin cụ thể cái gì cả, tinh thần thoáng chốc
tươi tỉnh lại đứng lên. Lúc này mới phát hiện bên cạnh còn có một người, anh ta
còn rất trẻ, khoảng hai bốn hai lăm tuổi, tóc màu nâu uốn cong, đôi mắt màu
xanh nhạt, mặc y phục tu sĩ màu đen, đang dịu dàng nhìn tôi. Tôi giật nảy mình,
lui về sau một bước.
"Cô nương, cô rất thành kính, Thượng Đế sẽ ban phúc cho
cô." Mặc dù giọng nói có chút kỳ quái, nhưng người nước ngoài nói được tiếng
Hán như vậy đã rất tốt rồi.
Tôi cười cười nói: "Ngài hiểu lầm rồi, tôi không phải
giáo đồ."
Anh ta sửng sốt, khó hiểu hỏi: "Thế vì sao cô lại ở trước
thánh giống như cầu nguyện vậy?"
"Tôi hy vọng thần linh cứu vớt linh hồn tôi." Tôi
thở dài.
Anh ta liền bắt đầu tuyên dương Thượng Đế toàn năng, cố gắng
thuyết phục tôi nhập giáo. Anh ta nói: "Thượng Đế yêu thương tất cả thế
nhân, chỉ cần cô có đủ tín ngưỡng, nhất định sẽ được cứu giúp."
Tôi có tín ngưỡng, nhưng không phải đối với Thiên Chúa và
chư thần. "Thượng đế thật bác ái, đáng tiếc là giáo hội lại bị tan rã, bọn
họ hận không thể diệt sạch tất cả tín đồ giáo phái." Tôi bèn cười trả lời.
Anh ta bị tôi chặn lại một câu không nói được gì, vẻ mặt rất
căm phẫn, thất vọng và chán nản. Nhưng truyền đạo ở quốc gia này, anh ta hẳn là
đã sớm chịu nhiều thất bại, nếu không thì sắc mặt cũng sẽ không thể khôi phục lại
nhanh như vậy, lập tức lại bắt đầu truyền thụ giáo lý cho tôi. Tôi vô ý thách
thức tín ngưỡng của anh ta, nhưng lại không ngừng cắt ngang lời anh ta, tán gẫu
với anh ta. Từ cuộc trò chuyện, tôi biết tên tiếng Trung của anh ta là Chung Khả
Thủ (ho khan?), người Hà Lan, mười sáu tuổi đã đến Trung Quốc truyền giáo. Anh
ta thấy tôi biết Hà Lan cảm thấy hết sức kinh ngạc, tôi nói với anh ta, đây là
do một người La Sát Quốc đã nói cho tôi biết từ nhiều năm trước.
Thủy chung anh ta vẫn không quên sứ mệnh của mình, càng
không ngừng khuyên tôi đi theo chỉ dẫn của Thượng Đế. Lúc đi kín đáo đưa cho
tôi một dây chuyền giá chữ thập và một bản kinh thánh (vẫn là bản tiếng Đức),
có trời mới biết tiếng Đức của tôi có bao nhiêu lỗ hỏng, lại không tặng kèm từ
điển). Anh ta nói, hy vọng tôi có thể đọc mỗi ngày, cho dù xem không hiểu cũng
đã tiếp cận với tinh thần của Thượng Đế. Ài, cứ lật lật như tranh minh họa thì
tốt rồi.
Tôi cáo biệt Chung Khả Thủ, đáp ứng còn có thể trở lại (tìm
anh ta tán gẫu), liền lên xe ngựa về nhà.
Về nhà cậu, thay bộ y phục khác, nghỉ ngơi một lát liền đến
chỗ của Khánh Bồi. Hôm nay là sinh nhật cậu ta, dù thế nào tôi cũng muốn bày tỏ
một