
ô là thuốc giải gì đó, anh không nắm lấy sẽ phát độc chết.
(AN: Phố Vương Phủ Tỉnh ở Bắc Kinh là một trong những phố mua sắm nổi tiếng
nhất của Bắc Kinh. Phần lớn đại lộ này hạn chế xe cộ lưu thông và lúc
nào cũng đầy người đi bộ, là một trong những đại lộ hiện đại và hấp dẫn
nhất Trung Quốc. Vương Phủ Tỉnh là một trong 4 khu vực trung tâm của Bắc Kinh, ngoài Dashilar, Xidan và Liulichang. Nó bắt đầu từ Vương Phủ Tỉnh Nam Khẩu, nơi có Plaza phương Đông và Khách sạn Bắc Kinh. Sau đó nó
hướng theo phía Bắc, đi qua Nhà sách Tân Hoa Vương Phủ Tỉnh. Cửa hàng
bách hóa Bắc Kinh cũng như Nhà sách Ngoại văn Bắc Kinh trước khi kết
thúc tại Sun Dong An Plaza. Vương Phủ Tỉnh là nơi có 280 thương hiệu cũ
của Bắc Kinh.
Cung Ung Hòa là một kiến trúc cổ đại kết hợp
đặc sắc các dân tộc Hán, Mãn, Mông Cổ, Tạng.Ung Hoà Cung là một trong
những chùa phật giáo Tây Tạng nổi tiếng trên thế giới. Diện tích hơn 60
nghìn mét vuông, có hơn nghìn ngôi điện. Ung Hoà Cung có nhiều cổ vật và kiến trúc cổ, trong đó nổi tiếng nhất là ba cổ vật được coi là “ba
tuyệt”.
Một tuyệt là núi năm trăm La Hán ở hậu điện Điện Pháp Luân.
Hai tuyệt là tượng phật Di Lạc trong Các Vạn Phúc.
Ba tuyệt là phật gỗ Đàn trong Lầu chiếu phật, là một bức tượng phật Thích Ca Mau Ni làm bằng đồng.
Ngoài “ba tuyệt ” nói trên ra, những kiến trúc và trang trí trong Ung Hoà
Cung đều có đặc điểm, như Điện Pháp Luân là kiến trúc hình chữ thập,
đỉnh Điện bắt chước phong cách Tây Tạng xây dựng 5 tháp mạ vàng, mang
nặng đặc sắc kiến trúc dân tộc Tạng, là tinh hoa nghệ thuật văn hoá Hán
Tạng; Trong Ung Hoà Cung có Bia đá, văn bia “Lạt Ma Thuyết” do hoàng đế
nhà Thanh viết, ghi rõ cội nguồn của Lạt Ma giáo và chính sách của nhà
Thanh đối với Lạt Ma giáo, viết bằng tiếng Hán, Mãn, Mổng Cổ và Tạng,
thể hiện đoàn kết dân tộc v.v. Kể từ khi mở cửa năm 1981 đến nay, mỗi
năm có hàng trăm nghìn người trong nước và nước ngoài đến Ung Hoà Cung
thắp hương và thờ phật, tham quan du lịch. Hiện nay Ung Hoà Cung không
những là thánh địa phật giáo, còn là bảo tạng nghệ thuật văn hoá Hán,
Mãn, Mổng Cổ và Tạng.)
Bất quá Kim Hạ cũng không định hỏi
vì sao, nhưng thật ra cô có nghĩ đến, cũng từng giả thuyết, nếu cô hỏi
anh vì sao dắt tay cô, anh sẽ trả lời như thế nào, cô giả thuyết rất
nhiều đáp án, chẳng qua nghĩ đi nghĩ lại, thấy bất luận là đáp án nào,
hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với cô. Cô nghĩ, chí ít dựa vào hành
động của anh, thì chăc chắn anh vẫn còn cảm thấy hứng thú với cô.
Ngày cuối cùng của lễ Quốc Khánh, du khách dần dần thưa thớt, Lục Xuyên dẫn
cô ra biển vui chơi, hai người trước đến phố đi bộ Pipe Byway , mới chậm rãi dạo đến khu quán bar.
Đèn rực rỡ mới lên, sau hồ nước biển nhân tạo mặt nước nhấp nhô những ngọn đèn ngược bóng, đường mòn ven hồ, đèn đêm rực rỡ.
Khác với ven đường các quán ăn đêm mọc lên san sát, sau biển im lặng tách
biệt, đến đây, muốn uống một ly rượu pha, hoặc ngồi trong quán, nghe ca
sĩ ở trong quán hát, hoặc ngồi ở bên hồ, mặc du suy nghĩ bay đi nơi đâu.
Cây côi sinh sống trong bê tông cốt thép, cuối cùng cũng trở thành một nơi, làm cho thời gian ngừng lại, làm cho tâm hồn được thở dốc một lát.
Lục Xuyên thuê con thuyền nhỏ, mang Kim Hạ đi chời hồ. Một người chèo
thuyền đứng ở đuôi thuyền, đầu thuyền có bàn đàn tranh, một nghệ sĩ mặc
sườn xám màu xanh lục ngồi ở đó, khúc nhạc uyển chuyển du dương từ ngón
tay xanh nhạt của cô tảng ra, là khúc nhạc nổi tiếng sông xuân đêm hoa
trăng.
Kim Hạ ghé vào mép thuyền, lẳng lặng nhìn hồ nước
sâu màu lục kia, sâu không thấy đáy, mặt hồ điểm nhiều chấm nhỏ là ngọn
đèn, tùy dạng bồng bềnh gợn sóng, trong lỗ tai nghe âm thanh mái chèo,
còn có tiếng đàn hát của nghệ sĩ cũng đàn tranh, làm cho cô nhớ đến Chu
Tự Thanh chèo thuyền ngắm cảnh trên sông Tân Hoài.
Lục
Xuyên ngồi chếch sang một bên đối diện cô, ngắm nhìn sườn mặt điềm tĩnh
của cô, hàng hiệu mua cho cô, cô cũng không có mặt, nếu đổi lại là phụ
nữ trước kia của anh, đã sớm thay khó cưỡng lại. Nếu cô không hám giàu,
vậy cô nguyện ý bị anh bao nuôi, là vì cái gì?
Trên bờ không biết từ quán bar nào, truyền đến thanh âm thanh niên, hát bài hát Bắc Kinh Bắc Kinh của Uông Phong.
Quán cà phê và quảng trường có ba con đường.
Tựa như khoảng cách từ đèn neon đến ánh trăng
Mọi người ở trong giãy dụa cho nhau cái ôm an ủi
Tìm cách theo đuổi giấc mơ sắp vỡ
Tôi cười ở đây
Tôi khóc ở đây
Tôi sống ở đây
Cũng chết ở đây
Tôi cầu nguyện ở đây
Tôi mê võng ở đây
Tôi tìm kiếm ở đây
Đã mất đi ở đây
Bắc Kinh, Bắc Kinh.
Bài hát này được Uông Phong hát lên, có loại mất mát cũng thế sự xoay vần
bất đắc dĩ, nhưng người hát lúc này, nghe giọng thấy tuổi không lớn, hát lên cũng có cảm giác giấc mộng còn chưa gianh cánh, cũng đã bị hiện
thực chụp lên vẻ mặt máu tươi bi ai cùng bất lực.
Kim Hạ
không khỏi thở dài thật sâu, lúc ấy quyết định ở lại Bắc Kinh làm việc,
là vì tiền lương cao hơn, cơ hội nhiều hơn, nhưng cũng như muối bỏ biển, trong vùng đất này, cô cuối cùng chẳng làm được đến đâu, không có cách
nào mang ba